Số Cutter, Số Tác Phẩm và Số Hiệu
Theo ALA Từ Ðiển Giải Nghĩa Thư Viện Học và Tin Học Anh-Việt thì:
Số Cutter (Cutter number) là “một mã số chữ/số dùng cho một tiêu đề có trong bản mô tả chính (main entry), chữ đầu tiên không phải là một mạo từ của phần mô tả thư mục, tên của một người được viết tiểu sử, v.v…, đã được chọn ra, hay căn cứ trên một Bảng Số Cutter hay Bảng Số Cutter-Sanborn để làm thành một phần của số sách (hay tài liệu thư viện) dành cho một đơn vị thư mục”.
Số Tác Phẩm (work mark) còn được gọi là Ký hiệu tác phẩm là: “Một hay nhiều dấu hiệu được thêm vào sau số tác giả trong số hiệu sách (hay tài liệu thư viện) để sắp xếp tiểu phân mục theo nhan đề, và cũng để giúp sắp xếp một cách thứ tự các ấn bản khác nhau của cùng một nhan đề.”
Số hiệu (call number) còn được gọi chung là Số hiệu sách (dù tài liệu thư viện gồm nhiều thể loại khác nhau): “Một tập hợp các ký hiệu trong một số hiệu giúp phân biệt một tài liệu có trong một sưu tập của thư viện với các tài liệu khác có cùng môn loại; thường bao gồm số phân loại số tác giả và số tác phẩm.”
Quản thủ thư viện ngoài việc phân loại tài liệu bằng cách cung cấp số phân loại (nếu dùng Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey (DDC)), thí dụ Văn học Việt Nam có số DDC là 895.921, họ vẫn cần phải cung cấp một số duy nhất dành một cuốn sách (hay tài liệu) có trong sưu tập thư viện của họ bằng cách cho thêm Số Tác Giả còn được gọi là Số Cutter vào sách [tức là những chữ cái và những con số đi theo sau số phân loại Dewey] và một hay vài chữ dành cho nhan đề sách, được gọi là số tác phẩm (work mark), do đó những cụm số và chữ này được
gọi là Số Hiệu (call number).
Hiện tại đã có ba Bảng Số Cutter được in thành sách, và một bảng dưới dạng hồ sơ điện tử (computer files) được Công ty OCLC làm trực tuyến. Ông Charles Ammi Cutter (1837-1903) làm ra “Bảng Số Tác Giả Cutter Hai-Số” (The Cutter Two-Figure Author Table) vào những năm cuối của Thế kỳ thứ 19. Sau đó, vào năm 1892 có “Bảng Số Tác Giả Cutter Ba-Số” (Cutter Three-Figure Author Table). Bảng này được bà Kate Sanborn mở rộng ra và nó trở thành bảng mới tên là “Bảng Số Tác Giả Cutter-Sanborn Ba-Số” (The Cutter-Sanborn Three-Figure Author Table). Gia đình ông Cutter giữ nhiệm vụ cập nhật thường xuyên và hiệu đính Bảng Số Cutter này cũng như giữ trọn bản quyền tác giả của sách này. Công ty OCLC đã làm ra “Bảng Số Cutter Bốn-Số” (Four-Figure Cutter Tables) trên hệ thống trực tuyến của họ (mà không xuất bản thành sách), để các thư viện dùng DDC 21 Online có thể dễ dàng lấy Số Cutter, Bảng số Cutter Bốn-Số này được chuyển tải miễn phí.(3) Số Cutter được dùng để phân biệt các tác giả khác nhau. Ðể phân biệt vị trí trên giá sách của những tác phẩm của cùng một tác giả, và nếu tác phẩm thuộc cùng một thể lọai, người ta phải cho thêm số tác phẩm (work mark) vào cùng với số Cutter. Số Cutter này được đặt sau số Dewey và được hiểu ngầm là số thập phân, không phải là số nguyên.
Cả ba số: số phân lọai, số Cutter, và số tác phẩm hợp lại để tạo thành một số cá biệt cho một cuốn sách gọi là Số hiệu hay Số hiệu Sách (dù tài liệu thư viện gồm nhiều thể hoại khác nhau). Như vậy Số Hiệu là số duy nhất dành cho một nhan đề sách có trong sưu tập của thư viện, để tránh việc cung cấp cùng một số hiệu sách cho hai nhan đề khác nhau có cùng một môn loại và bảo đảm vị trí của nó cũng như sự truy tìm sách này trên giá sách.
Trên nguyên tắc khi cung cấp Số hiệu sách, người làm biên mục phải dựa trên bản mô tả chính (main entry) với tiêu đề chính (main heading) có thể là tên họ (surname, last name) theo sau là một dấu phẩy nếu làm biên mục mô tả theo Quy Tắc Biên Mục Anh-Mỹ, ấn bản thứ 2 (AACR2R)(4), bút hiệu của tác giả (pseudonym), tên tập thể (corporate body as main entry) hay nhan đề của sách nếu sách do trên ba tác giả làm ra thì tiêu đề chính phải dùng là Nhan đề sách (Title main entry). Nếu nhan đề sách được ghi trên trang nhan đề bằng chữ số, và lại đuợc dùng làm tiêu đề chính (title main entry) thì khi người làm biên mục tìm số Cutter thì phải đánh vần các chữ số đó rồi dựa trên Bảng Số Cutter để lấy ra Số Cutter thích hợp. Thí dụ tên sách là 50 Năm Khoa Học Công Nghệ Việt Nam (1945-1995) nếu nhan đề sách được dùng làm tiêu đề chính, thì người làm biên mục phải cung cấp thêm một nhan đề thứ hai với các con số được đánh vần hết ra theo tiếng Việt là “Năm Mươi Năm Khoa Học Công Nghệ Việt Nam” và số Cutter sẽ bắt đầu bằng chữ N. Nếu tên sách bắt đầu bằng một chữ cái và một dấu toán học kèm theo, thí dụ như tên sách là chương trình của máy điện toán bắt đầu bằng chữ C+ hay C++, khi làm biên mục, người ta phải làm thêm một nhan đề nữa cho sách này, với chữ C+ hay C++ được đánh vần hết ra là “C Cộng”, hay “C Cộng Cộng” và nếu nhan đề này được dùng làm tiêu đề chính (main heading) thì số Cutter dùng cho sách này sẽ là C3198 trích trong bảng Số Cutter 4 số của OCLC.
Nếu tên sách được bắt đầu bằng chữ viết tắt của một tên cá nhân, thí dụ V. I. Lenin, thì biên mục viên phải tuân theo chính sách riêng của thư viện đặt ra mà cung cấp số Cutter. Thí dụ: Thư viện của Ðại Học Illinois, ở tỉnh Urbana-Champaign đặt ra chính sách riêng là : “Nếu tên tác giả được dùng là chứ tắt, và nếu nhan đề sách được dùng làm tiêu đề chính (main heading) ở trong bản mô tả chính (title main entry) thì đánh số Cutter theo chữ cái đầu tiên của nhóm chữ tắt này cho thêm số 1, mà không làm cho tên được đánh vần hết ra của một tên đầy đủ của tên cá nhân đó trên nhan đề sách. Thí dụ: nhan đề sách là V. I. Lenin và nó được dùng làm tiêu đề chính (title main entry) thì số Cutter dành cho nhan đề này là V1 (chữ V và số một) mà không phải là V843 (chữ tắt V trong tên đầy đủ của Lenin là: Vladimir Ilich Lenin); còn những chữ tắt khác (không phải là tên cá nhân thì lại được đánh số Cutter như là những cụm từ.” Thí dụ: U.N. là chữ viết tắt của United Nations (Liên Hiệp Quốc), số Cutter sẽ là Un314 trích trong Bảng Số Cutter 4 số của OCLC, mà không phải là U1 (chữ U và số một).
Nếu tài liệu làm bằng nhiều ngoại ngữ khác với mẫu tự thuộc gốc La-Tinh (tiếng Việt hiện nay dựa trên mẫu tự La-Tinh, ngày xưa chúng ta dùng chữ Hán và chữ Nôm), chẳng hạn như tiếng Hán (Chinese), tiếng Ki-rin của Nga (Cyrillic), tiếng Do Thái (Hebrew), v.v. thì người thủ thư cần phải phiên âm sang vần tiếng Anh (hay vần tiếng Việt, tùy theo từng thư viện của từng nước nói tiếng Anh hay tiếng Việt) để có thể dùng được các tên theo mẫu tự La-Tinh có trong Bảng Số Cutter này vì bảng số Cutter này làm bằng tiếng Anh do một người Mỹ làm ra. Thí dụ tại Mỹ, tên của cố Chủ tịch nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được phiên âm theo mẫu tự La-Tinh, lối viết Pinyin với vần tiếng Anh là Mao Zedong (lối viết cũ Wade-Giles là Mao Tse-tung), tên của vị đương kim Tổng thống nước Nga được phiên âm từ tiếng Nga (Cyrillic) sang vần tiếng Anh là Vladimir Putin, tên của vị đương kim Thủ tướng nước Do Thái được phiêm âm từ tiếng Do Thái (Hebrew) sang vần tiếng Anh là Ariel Sharon. Ðối với việc làm biên mục tại Việt Nam, việc phiên âm tên người nước ngoài như thế nào thì thư viện cần phải đặt tiêu chuẩn và luôn luôn phải có sự nhất quán trong việc làm này, thí dụ nếu dùng tên của cố Chủ tịch Trung Hoa và Cô Tổng thống Ðài Loan theo tiếng Việt là Mao Trạch Ðông và Tưởng Giới Thạch, thì không thể dùng tên phiên âm Pinyin theo vần tiếng Anh là Mao Zedong và Chiang Kai-shek làm tiêu đề chính được.
Số hiệu (call number) theo định nghĩa ghi trong ALA Từ Ðiển Giái Nghĩa Thư Viện Học và Tin Học Anh-Việt là một tập hợp những ký hiệu để chỉ định một tài liệu nào đó trong một sưu tập của thư viện và ấn định vị trí của nó. Thông thường số hiệu bao gồm số phân loại [thí dụ số Dewey] và một Số Sách (book number) bao gồm Số tác giả (hay số Cutter) dùng mẫu tự (chữ cái) đầu tiên của tên họ (last name, family name) của tác giả theo sau là một chuỗi con số (thường là 3 hay 4 con số) cộng thêm một hay vài chữ lấy ra từ nhan đề sách (gọi là số tác phẩm) để bảo đảm cho việc xếp sách trên giá sách theo thứ tự của mẫu tự đầu của tên sách [tức là vừa có chữ đầu tiên của tên họ tác giả, cộng thêm một chuỗi 3 hay 4 con số và một chữ đầu tiên của nhan đề sách]. Cũng có khi thư viện không dùng Bảng số Cutter mà chỉ dùng ba chữ cái đầu tiên của họ tác giả mà thôi.
Dưới đây là một thí dụ thứ nhất về số Cutter lấy ra từ Bảng Số Tác Giả Cutter Ba-Số, dành cho mấy tên họ bắt đầu bằng chữ cái ở vần D và có ba số Ả Rập đi kèm:
Douglas, G có số Cutter là D734
Douglas, M có số Cutter là D735 <<
Douglas, S có số Cutter là D736
Douglas, W có số Cutter là D737
Doul có số cutter là D738
Dour có số Cutter là D739
như vậy khi người Quản thủ thư viện làm biên mục cho cuốn sách có nhan đề là Quantum-electrodynamical corrections to the fine structure of helium của một tác giả tên là Marvin Douglas thì số phân lọai Dewey cho cuốn sách này với tiêu đề đề mục thuộc về “Ðiện động lực lượng tử” (Quantum electrodynamics) sẽ là 537.67, số tác giả cho cuốn sách theo Bảng Số Cutter Ba Số này, và lấy số Cutter là D735 cho cuốn sách của tác giả này, rồi tiếp theo là chữ Q là mẫu tự đầu tiên của nhan đề sách, để có một Số Hiệu duy nhất cho tác phẩm này, đó là số 537.67D735Q.
Thí dụ thứ hai: Thư viện Morris của Southern Illinois University ở tỉnh Carbondale, tiểu bang Illinois (6), có 3 cuốn sách về Văn học Việt Nam của tác giả Dương Quảng Hàm là:
- Dương Quảng Hàm. Quốc văn trích diễm. Saigon: Bốn Phương, 1952. (274 tr.)
- Dương Quảng Hàm. Việt Nam văn học sử yếu: Trung học Việt Nam. In lần 3. Hà Nội: Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1951. (480 tr.)
- Dương Quảng Hàm. Việt Nam văn Học. In lần 3. Saigon: Bộ Quốc Gia Giáo dục, 1961. (236 tr.)
xem như vậy thì ba tác phẩm của Dương Quảng Hàm đều cùng ở đề mục thuộc văn học Việt Nam do đó số phân loại Dewey sẽ là 895.9209 và số Cutter lấy từ vần D của tiêu đề chính (main heading) là tên họ của tác giả Dương Quảng Hàm là D9286. Tuy nhiên để phân biệt vị trí trên giá sách của ba cuốn sách do cùng một tác giả, viết cùng một thể loại. Do đó ba cuốn sách của Dương Quảng Hàm nói trên có trong sưu tập Thư viện Morris của Southern Illinois Univertsity, Carbondale đã lần lượt được biên mục viên cho số Cutter có khi kết hợp với số tác phẩm là D9286Q, D9286V 1951, D9286VI thêm vào số hiệu để phân biệt vị trí cũa nó trên giá sách. Tập
hợp số phân loại Dewey, số Cutter kèm theo số tác phẩm (được tùy chọn và thêm vào tùy theo chính sách riêng của thư viện Morris) dành cho nhan đề của sách đã tạo thành Số Hiệu (Call number)
Ngoài những số kể trên được biên mục viên cho thêm vào số Phân Loại Thập Phân Dewey, người ta cũng có thể cho năm xuất bản thêm vào để phân biệt các ấn bản (edition) khác nhau của cùng một nhan đề sách, hay số tập (volume number), số cuốn (copy number), số phần (part).
Ðối với tác giả Việt Nam, có một số họ quá thông dụng và nhiều nguời có cùng một họ, chẳng hạn như họ Nguyễn, khi tìm số Cutter cho tác phẩm của các tác giả trùng họ Nguyễn này, người làm biên mục phải cẩn thận để tránh việc cho trùng một số Cutter cho hai tác giả khác nhau nhưng có cùng một họ, và tên gọi gần giống nhau, hay hoàn toàn giống nhau trên phương diện gõ tên họ bằng máy điện toán có hay không có dấu thanh điệu (diacritic marks) đi kèm (thí dụ Nguyễn Du, 1765-1820, và Nguyễn Dữ (1496). Theo Bảng số Tác Giả Cutter-Sanborn Bốn-Số của OCLC, các tác giả họ Nguyễn được gom lại thành từng nhóm dựa theo thành phần thứ hai của tên tác giả đầy đủ. Thí dụ: Bảng số Tác Giả Cutter-Sanborn Bốn-Số (OCLC Four-Figure Cutter Tables)
ttp://www.oclc.org/dewey/products/index.htm#cutter) cung cấp số tác giả họ Nguyễn như sau:
Nguyễn, A tới D có số Cutter là N5764
Nguyễn, E tới K có số Cutter là N5765
Nguyễn, L tới P có số Cutter là N5766
Nguyễn, Q tới T có số Cutter là N5767
Nguyễn, U tới Z có số Cutter là N5768
Thí dụ thứ ba: Sưu tập của Thư viện Morris của Southern Illinois University, Carbondale đã có rất nhiều nhan đề liên hệ đến tác phẩm Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du, (1765-1820), cũng như có nhiều tác giả khác bàn luận về tác phẩm Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du. Xem như thế, thì những tác giả Việt Nam có cùng họ Nguyễn sẽ phải có số Cutter khác nhau, thí dụ Nguyễn Du, 1765-1820 có số Cutter là N57612 và Nguyễn Dữ, fl.1496 có số Cutter là N576128.
Ðôi khi tên dịch giả và ngôn ngữ của văn bản dịch cũng được người làm biên mục thêm vào số hiệu để phân biệt những cuốn sách có cùng một thể loại do cùng một tác giả, nhưng được dịch ra bằng nhiều thứ tiếng khác nhau (tên các ngôn ngữ bằng tiếng Anh được trích từ Bảng Mã Ngôn Ngữ Theo Khuôn Thức MARC thí dụ như bản dịch sang tiếng Pháp (French) hay tiếng Anh (English) thì chữ cái đầu tiên của hai thứ tiếng này là F và E được ghép vào với tác giả và số tác phẩm để có một số cá biệt cho các sách dịch này.